Home » taichinh
Tin Thị Trường - Kênh tin tức kinh tế, tài chính, thông tin giá vàng, chứng khoán, tìm việc làm... được cập nhật liên tục, chính xác và nhanh nhất.
VnEconomy
Theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống tại thời điểm tháng 2/2014 là 3,86% trên tổng dư nợ hơn 3,43 triệu tỷ đồng (chính xác dư nợ là 3.437.733 tỷ đồng).
Như vậy, đây là tháng thứ 2 liên tiếp tỷ lệ nợ xấu tăng. Cuối 2013, nợ xấu chỉ chiếm 3,61%, tháng 1/2014 tăng trở lại lên 3,73% và tháng 2 là 3,86%.
Đáng chú ý tỷ lệ nợ xấu tăng trong bối cảnh tín dụng giảm. Tại thời điểm cuối tháng 2, dư nợ tín dụng giảm 1,16% so với cuối năm 2013.
Đến nay, tín dụng đã tăng được 1,31% so với đầu năm và cơ quan quản lý chưa cập nhật số liệu tiếp theo về nợ xấu song cũng không khó để hình dung bức tranh nợ xấu khi báo cáo tài chính của các ngân hàng quý 1 cho thấy tình hình không mấy sáng sủa. Nợ xấu của các ngân hàng hầu hết đều tăng và tăng mạnh nhất ở nhóm nợ có khả năng mất vốn.
Tùng Lâm
Theo Trí Thức Trẻ
Chỉ tăng phân nửa tốc độ cùng kỳ năm ngoái
Tại thời điểm cuối quý I, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn tỏ ra lạc quan khi tăng trưởng tín dụng đã dương trở lại, tăng 1% so với cuối tháng 2 và tăng 0,01% so với cuối năm 2013, nhưng đến nay mức độ lạc quan đã giảm.
Số liệu mới nhất của NHNN cho thấy đến ngày 23-5, tín dụng chỉ tăng 1,31% so với đầu năm, bằng phân nửa tốc độ tăng của cùng kỳ năm ngoái và thấp xa mục tiêu điều hành cả năm là 12%-14%. Trong khi đó, vốn huy động toàn hệ thống vẫn tăng 4,2%.
Đáng lưu ý, các chuyên gia kinh tế đang lo ngại xu hướng cầu tín dụng trơ với lãi suất đang bộc lộ ngày càng rõ nét.
Theo Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN, lãi suất cho vay trong tháng 5 đã giảm thêm 0,5% do các ngân hàng thực hiện chủ trương của Chính phủ giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp (DN). Mặt bằng lãi suất hiện nay đã về mức năm 2005-2006, nhiều ngân hàng còn giảm lãi suất trước khi NHNN điều chỉnh lãi suất điều hành và hiện trên thị trường vẫn có ngân hàng niêm yết lãi suất huy động thấp hơn trần lãi suất của NHNN.
Lãi suất cho vay hiện đang ở mức 9%-12%/năm, dự án tốt có thể vay với lãi suất 7%/năm, các lĩnh vực ưu tiên còn được vay thấp hơn. Các khoản vay cũ cũng được điều chỉnh giảm, trên cả hệ thống chỉ còn 20% khoản vay chịu lãi suất từ 13% trở lên, trong đó chỉ có 5% các món tín dụng vẫn phải trả chi phí vay trên 15%/năm. Như vậy, lãi suất đã giảm khá mạnh so với tín hiệu lạm phát nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng không tăng tương ứng. Điều này cho thấy cầu tín dụng vẫn trơ với lãi suất.
Phải đẩy mạnh bảo lãnh
Trên thị trường vẫn tiếp tục quẩn quanh mâu thuẫn: DN muốn hạ chuẩn để dễ tiếp cận vốn thì ngân hàng lại không thể cho vay bằng mọi giá để tránh phát sinh nợ xấu. Tiền vẫn ứ đọng ở ngân hàng, kênh trái phiếu Chính phủ cũng không thể thực hiện được vai trò gián tiếp dẫn vốn vào nền kinh tế.
Đại diện Vụ Chính sách tiền tệ cho biết trong 5 tháng qua, các ngân hàng thương mại đã rót một lượng tiền lớn vào trái phiếu Chính phủ nhưng khoản tiền này Chính phủ chưa sử dụng hết mà vẫn gửi trong ngân hàng nhiều hơn trước. Như vậy, cả tín dụng ngân hàng và vốn ngân sách huy động cũng khó đẩy ra nền kinh tế. NHNN cho rằng để khơi thông tín dụng, cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh tín dụng để DN tiếp cận vốn tốt hơn trong khi ngân hàng không phải hạ chuẩn cho vay. Hiện nay, cơ chế bảo lãnh tín dụng đã có nhưng việc triển khai còn nhiều bất cập nên hiệu quả chưa cao.
Một kênh khác có thể thúc đẩy tăng trưởng tín dụng là mô hình liên kết ngân hàng - DN. Tại Hà Nội và TP HCM đang tích cực đẩy mạnh mô hình này. Bà Nguyễn Thị Mai Sương, Giám đốc NHNN Chi nhánh Hà Nội, cho biết đến ngày 20-5, trên địa bàn Hà Nội đã có 8 ngân hàng đăng ký tham gia chương trình với số vốn hơn 11.000 tỉ đồng, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho DN.
NHNN cho biết từ nay đến cuối năm, mô hình liên kết ngân hàng - DN sẽ được nhân rộng tại nhiều địa phương trong cả nước nhằm thúc đẩy vốn vào nền kinh tế. Những nỗ lực này nhằm đem lại cơ hội sống cho cộng đồng DN, từ đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, giữ vững động lực tăng trưởng kinh tế.
Theo Hà Linh
Người lao động
Sài Gòn Đầu Tư
Bà Nguyễn Thị Minh,Thứ trưởng Bộ Tài chính kiêm TGĐ Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chia sẻ như vậy trước thông tin về nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) khiến Bộ Lao động và xã hội phải đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu.
Tăng tuổi nghỉ hưu chỉ là một giải pháp
PV: - Thưa bà trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi lần này có nêu sau năm 2034 nguy cơ vỡ Quỹ bảo hiểm xã hội. Theo đó để ngăn ngừa Luật có đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu. Tuy nhiên hiện dư luận có rất nhiều ý kiến bày tỏ sự phản ứng đối với đề xuất này. Trên diễn đàn Quốc hội cũng có ý kiến bác bỏ. Theo bà những phản ứng này liệu có thể thông cảm được không?
Bà Nguyễn Thị Minh:- Thực ra tăng tuổi nghỉ hưu chỉ là một trong 8 nhóm giải pháp để cân đối quỹ. Trong 8 nhóm giải pháp như thay đổi mức đóng, mức hưởng, phát triển đối tượng, khắc phục tình trạng nợ đọng như hiện nay… thì tăng tuổi nghỉ hưu là một trong số giải pháp này.
Tôi cho rằng Quốc hội cũng đang bàn thảo chứ chưa phải là bác bởi vì trong dự thảo Luật lần này đúng là có đề cập tăng tuổi nghỉ hưu nhưng mà cũng phân biệt theo nhóm chứ không phải như thông tin đã đưa là đối với lĩnh vực lao động nặng nhọc mà nữ vẫn 60 tuổi, nam 62 tuổi mới được nghỉ hưu. Như thế là không đúng.
Dự thảo Luật đã phân biệt rất rõ, với những nhóm lao động nặng nhọc hoặc suy giảm khả năng lao động thì vẫn giữ nguyên như Luật hiện hành. Tức là dự thảo Luật lần này vẫn giữ nguyên không có mâu thuẫn với Luật Lao động đã ban hành mà chỉ là cụ thể thêm.
Tuy nhiên tôi cũng xin khẳng định rằng không phải vì mất cân đối Quỹ mà phải tăng tuổi nghỉ hưu. Hiện tuổi thọ người Việt Nam tăng lên nhiều so với cách đây mấy chục năm, mà từ năm 1960 đến nay chúng ta chưa điều chỉnh tuổi nghỉ hưu. Trong khi đó nhiều nước trên thế giới đã điều chỉnh rất nhiều, thậm chí đến 65-67 tuổi. Do vậy Luật lần này đề cập nâng tuổi nhưng vẫn phải tính sự hợp lý.
PV: - Thưa bà, trên diễn đàn Quốc hội bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm UB các vấn đề xã hội của QH có đề cập hiện Quỹ đang sử dụng chính tiền của người lao động để duy trì bộ máy, trong khi bộ máy lại cồng kềnh, không hiệu quả nên điều này cũng góp phần gây vỡ quỹ. Bà nhận định như thế nào về ý kiến này và theo bà sẽ phải thay đổi như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Minh:- Hiện nay chúng tôi đang được giao nhiệm vụ thu tiền của người lao động và chủ sử dụng lao động để hình thành Quỹ chi trả chính sách cho người lao động. Thực tế chúng tôi chưa sử dụng đến tiền của người lao động mà chỉ sử dụng một phần lãi tăng trưởng rất nhỏ. Toàn bộ số tiền gốc của người lao động được bảo toàn, đem đi đầu tư và sinh lời.
Bất cứ một bộ máy nào cần hoạt động đều cần điều kiện tài chính đảm bảo cho nó. Thực tế chúng ta đang chi tiền cho bộ máy bảo hiểm xã hội tiết kiệm hơn rất nhiều nước. Dù rằng ứng dụng công nghệ thông tin của ta vào việc quản lý còn kém nhưng chi phí quản lý của chúng ta còn thấp hơn những nước có công nghệ tiên tiến như Pháp, Nhật Bản và một số nước phát triển khác thì không thể nói là bộ máy cồng kềnh.
Nếu ai quan tâm thì có thể thấy tỉ lệ người được giao thu bảo hiểm gánh nặng rất lớn, cán bộ rất vất vả. Họ phải làm việc tới 8-9 giờ tối. Tại Hà Nội có tới 200 doanh nghiệp giao cho một cán bộ thu.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn tích cực phấn đấu tới đây khi áp dụng công nghệ thông tin khi công nghệ máy móc sử dụng làm việc thay cho con người nhiều thì sẽ giảm số lao động của bảo hiểm xã hội đi. Số tiền bớt ra sẽ được dành cho phát triển đối tượng và những việc có hiệu quả.
Chắc chắn không để xảy ra vỡ quỹ!
PV: - Thưa bà qua các thông tin cho thấy nguy cơ vỡ quỹ BHXH xuất hiện trong tương lai gần. Tuy nhiên có nhiều ý kiến cho rằng nguy cơ này phần nhiều là do khâu quản lý quỹ chưa ổn. Thậm chí người lao động còn đang thiệt vì tiền lãi của người đóng BHXH sau 30 năm cao hơn cả tiền lương hưu. Do vậy nói sau năm 2034 quỹ BHXH sẽ vỡ là không thuyết phục. Bà nghĩ sao về điều này?
Bà Nguyễn Thị Minh:- Tôi nghĩ rằng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nghiên cứu rất khách quan và cũng đưa ra những nhận định tương đồng với chúng tôi. Còn các lo ngại đưa ra mới chỉ là đặt giả định với chính sách như hiện nay thì có thể dẫn đến nguy cơ vỡ quỹ. Song chắc chắn là điều đó không xảy ra vì chúng ta phải sử dụng nhiều giải pháp tích cực.
Còn có ý kiến cho rằng việc quản lý quỹ chưa ổn thì tôi không nghĩ vậy mà nếu có thì chỉ là mong muốn làm tốt hơn thôi.
Như tôi đã so sánh ở trên kể cả với các nước tiên tiến thì Việt Nam vẫn nằm trong nhóm hoạt động hiệu quả thậm chí là tốt hơn các nước phát triển. Nhưng chúng ta muốn hiệu quả hơn nữa.
PV: - Thưa bà hiện dự thảo Luật bảo hiểm tăng chức năng thanh tra và nếu BHXH được trao quyền thanh tra thì nhiều vấn đề vi phạm về BHXH sẽ được giải quyết, việc nợ đóng sẽ được hạn chế . Vậy nếu được thông qua để thực hiện chức năng này thì sẽ phải tuyển dụng thêm hay sử dụng đội ngũ cũ. Nếu là đội ngũ cũ thì họ lại chưa có kinh nghiệm trong việc thanh tra, kiểm tra. Theo bà vấn đề này sẽ giải quyết như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Minh: - Hiện nay bộ máy của chúng tôi đã có khoảng 5.000 người làm chức năng kiểm tra, tuy nhiên chưa có chức năng xử phạt. Họ là những người làm chuyên môn nghiệp vụ, nắm thu, chi nên biết đơn vị nào nợ đọng. Như vậy kỹ năng kiểm tra là có.
Như vậy bộ máy là có sẵn nếu được trao thêm chức năng xử phạt thì hiệu lực của việc kiểm tra đó sẽ tăng lên nhiều và tính răn đe với doanh nghiệp sẽ cao hơn.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
Theo Bích Ngọc
Đất Việt
Báo Pháp luật
Theo đó, báo cáo chỉ rõ các ngân hàng thương mại góp vốn, mua cổ phần nằm trong giới hạn cho phép nhưng hiệu quả đầu tư thấp.
Thu nhập từ hoạt động đầu tư năm 2012 của Ngân hàng TMCP Công thương VN (VietinBank) bằng 5,65% giá trị đầu tư, của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) bằng 3,57%; tỉ suất sinh lời từ một số hoạt động đầu tư năm 2011-2012 của Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN (Vietcombank) chỉ đạt 3,3-5,3%.
Nhiều khoản đầu tư của Agribank cũng đã suy giảm trên 60% giá trị đầu tư, như khoản đầu tư vào Công ty CP đầu tư Vietnamnet suy giảm 68% giá trị; Công ty CP vận tải Vinaconex: 72%; Công ty CP Ximăng Hà Tiên 1: 85,08%; Công ty CP Tập đoàn CMC: 90,43%.
Còn VietinBank có 3/4 mã chứng khoán bị suy giảm, trong đó khoản đầu tư vào Công ty CP Ximăng Hà Tiên 1 suy giảm 84,38%; Công ty CP Cao su Phước Hòa 49,57% và Công ty CP Gang thép Thái Nguyên 38,61%. Đặc biệt, Agribank đầu tư vào một số đơn vị kinh doanh thua lỗ không bảo toàn được vốn: Công ty Cho thuê tài chính I, Công ty Cho thuê tài chính II, Ngân hàng TMCP Đại Tín.
Về kết quả hoạt động kinh doanh, Kiểm toán Nhà nước đánh giá dù năm 2012 tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức tác động trực tiếp đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, song kết quả hoạt động kinh doanh có lãi như lợi nhuận kế toán trước thuế năm 2012 của VietinBank, Vietcombank và Agribank lần lượt là 8.121 tỉ đồng, 5.764 tỉ đồng và 2.876 tỉ đồng. Tỷ lệ khả năng sinh lời đều trên 75%: Vietcombank là 94,87%; VietinBank là 94,42% và Agribank là 87,9%.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tỉ suất lợi nhuận trên vốn tại các ngân hàng đều giảm so với năm 2011. VietinBank năm 2011 là 35,73%, năm 2012 là 28,97%; Vietcombank năm 2011 là 23,79%, năm 2012 là 13,6%; Agribank năm 2011 là 7,11%, năm 2012 là 5,39%.
Đánh lưu ý, tỉ lệ nợ xấu tăng nhanh, tính đến thời điểm cuối quý 2-2013, nợ xấu của VietinBanklà 2,21%, Vietcombank 2,66%. Đặc biệt, nợ có khả năng mất vốn chiếm tỉ lệ lớn trên tổng nợ xấu của VietinBank là 2.132 tỉ đồng, chiếm 42,8% dư nợ xấu; Agribank 23.652 tỉ đồng, chiếm 60% tổng dư nợ xấu, bằng 89% vốn điều lệ.
Theo L.Thanh - M.Quang
Tuổi trẻ
Xem thêm:
Xem thêm:
- Nội dung phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ bầu Kiên chiều 23/5
(Các nguyên lãnh đạo ACB khẳng định ủy thác gửi tiền là không trái luật; Bầu Kiên và gia đình ông Trần Mộng Hùng là cổ đông lớn, giữ trên dưới 30% cổ phần nên có tiếng nói quyết định; Ông Kiên tiếp tục tự bào chữa bằng những dẫn chứng từ các luật, yêu cầu gửi khiếu nại lên Tổng Bí thư, ông Nguyễn Bá Thanh...)
- Nội dung phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ bầu Kiên sáng 22/5
(Bầu Kiên tay cầm các văn bản, tự bào chữa trước tòa bằng việc dẫn quy định pháp luật và chỉ ra các sai sót của cơ quan điều tra)
(Các cơ quan né tránh trách nhiệm trả lời về hoạt động kinh doanh của công ty bầu Kiên. Ông Kiên đề nghị triệu tập đại diện VCCI và mời bà Phạm Chi Lan làm nhân chứng trả lời vì tất cả các cơ quan mà Tòa đã hỏi đều không đủ thẩm quyền để trả lời về vấn đề của ông)
-Nội dung phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ bầu Kiên sáng 21/5
(Bầu Kiên khẳng định nhiều người biết cổ phiếu thép Hòa Phát đã bị thế chấp. Chủ tịch Hòa Phát Trần Đình Long trong khi đó khai là không biết. Về kinh doanh vàng, bầu Kiên khẳng định chỉ kinh doanh giá vàng chứ không kinh doanh vàng hay vàng trạng thái)
-Nội dung phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ bầu Kiên chiều 20/5
-Nội dung phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ bầu Kiên sáng 20/5
-------------------
Ngày 23/5/2014, phiên tòa sơ thẩm xét xử ông Nguyễn Đức Kiên đã bước sang ngày thứ 4.
Sáng nay, tòa tiếp tục thẩm vấn. Chủ tọa cho biết, hôm nay tòa sẽ tập trung thẩm vấn về hành vi ủy thác cho nhân viên đem tiền đi gửi tiết kiệm tại ngân hàng khác để hưởng lãi suất cao của ACB.
8h30, phiên tòa bắt đầu.
Đại diện NHNN – Thanh tra NHNN:
“Theo luật các TCTD 2010 có hiệu lực từ ngày 1/1/2011, NHTM được quyền ủy thác và nhận ủy thác. Trong thời gian từ năm 2010 – 2011, trước khi luật này có hiệu lực thì việc ủy thác đầu tư được điều chỉnh theo quyết định 742, việc ủy thác đi gửi tiền tiết kiệm không có luật nào quy định. Những văn bản trái với luật này thì phải dừng và không được thực thi. Vào thời điểm các bị cáo phạm tội thì NHNN chưa có hướng dẫn và quy định cụ thể về việc ủy thác.
Liên quan đến việc các NH đem tiền đi gửi tiền vào NH khác để hưởng lãi suất cao hơn, mà cụ thể là ACB, NHNN đã nói rất rõ với cơ quan điều tra là vi phạm điều 106 Luật các TCTD. Chúng tôi giữ nguyên quan điểm này.”
Ông Nguyễn Đức Kiên được cách ly sang phòng khác khi tòa xét hỏi ông Lý Xuân Hải.
Ông Lý Xuân Hải nhắc lại về nghị quyết của HĐQT ACB ngày 22/3/2012 chủ trương ủy thác cho nhân viên đem tiền đi gửi tiết kiệm tại Vietinbank. Kế toán trưởng Nguyễn Văn Hoà là người trực tiếp điều hành nhân viên thực hiện và báo cáo lại với ông Hải.
Ông Nguyễn Văn Hoà cho biết chính mình là người ký hợp đồng ủy thác cho các nhân viên. Trong đó Huỳnh Thị Bảo Ngọc được giao toàn quyền là người liên hệ với Vietinbank CN Hồ Chí Minh và các ngân hàng khác để tìm kiếm “mối” có hoa hồng tiền gửi cao. ACB đã thực hiện chuyển tiền cho nhân viên qua tài khoản. Người đã có tài khoản thì chuyển tiền vào rồi ký hợp đồng ủy thác, người chưa có thì chuyển tiền vào rồi mở tài khoản sau.
Ông Hoà không biết Huyền Như, chỉ biết bà này khi bị bắt. Theo ông Hoà, việc mình thực hiện các thủ tục ứng tiền và gửi tiền là đúng quy định, việc thu và trả phí hoa hồng tiền gửi cũng là một nghiệp vụ của ngân hàng tuy không biết có quy định trong văn bản pháp luật nào không.
Tòa hỏi NHNN và đại diện NHNN khẳng định lại, theo Quyết định 1284 ban hành ngày 21/11/2002 của NHNN thì quá trình gửi tiền các NH đem tiền đi gửi tiền vào NH khác để hưởng lãi suất cao hơn là vi phạm pháp luật.
Hải Minh
Theo Trí Thức Trẻ
Nguồn: FBNC
Theo VTV
Theo Trí Thức Trẻ
Lợi nhuận giảm do đâu?
Theo báo cáo của một số NHTM, lợi nhuận trong quý I/2014 khá khả quan. Trong đó, bất ngờ nhất phải kể đến Techcombank. Theo báo cáo mà NH này công bố, lợi nhuận hợp nhất trước thuế trong quý I đạt 673 tỷ đồng, tăng 69% so với cùng kỳ, đạt 57% mục tiêu lợi nhuận cả năm 2014. Ngoài ra, Eximbank, SHB… là NH có lợi nhuận khả quan trong quý I/2014. Dự kiến từ nay đến hết tháng sẽ có thêm nhiều NHTM công bố báo cáo tài chính quý I/2014, nhất là các NH đã niêm yết chính thức.
Cùng với việc tín dụng các NH đang tăng trở lại, giới đầu tư kỳ vọng bức tranh lợi nhuận trong năm 2014 sẽ sáng sủa hơn so với năm 2013. Nhưng, lãnh đạo một NHTMCP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thẳng thắn thừa nhận, diễn biến lợi nhuận các NH có thể đảo ngược, tức là cuối năm lãi giảm hoặc thậm chí thua lỗ. Như năm 2013, lãi quý IV của VietinBank giảm hơn 60%; SHB công bố lợi nhuận quý IV giảm hơn 70%. Hay như ACB công bố lỗ 293 tỷ đồng trong quý IV/2013. Năm nay, không loại trừ tình huống này cũng sẽ xảy ra đối với các NH khi hoạt động kinh doanh dự báo vẫn còn nhiều khó khăn.
Việc giảm lãi suất để chia sẻ khó khăn với khách hàng là yếu tố đầu tiên tác động đến lợi nhuận NH. Đây cũng là điều mà các NH băn khoăn khi tiếp tục nhận nhiệm vụ giảm lãi suất cho vay. Một nguyên nhân nữa khiến lợi nhuận khó tăng mạnh, theo TS. Lê Thành Trung – Phó tổng giám đốc HDBank, là do thị trường ngày càng nhiều biến động, đặc biệt những sự kiện thời sự mới xảy ra cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói riêng. Vì thế, các NH hy vọng lợi nhuận ở mức chấp nhận được chứ không kỳ vọng lợi nhuận lớn trong năm nay.
Sự thận trọng trên của các NH có vẻ không thừa, khi kết quả kinh doanh trong quý I/2014 cũng cho thấy, nhiều NH đang bị sụt giảm lãi. Trong đó, Sacombank là cái tên đáng chú ý nhất. Sau khi trở lại ấn tượng với kết quả kinh doanh nổi bật trong năm 2013, sang đến quý I/2014, lợi nhuận trước thuế của NH này giảm hơn 11% so với cùng kỳ, đạt 793,8 tỷ đồng. Nguyên nhân chính là nợ xấu tại NH này đã tăng lên đáng kể từ 1,45% cuối 2013 lên 1,86% khi kết thúc quý I/2014. Hiện, nợ xấu cũng đang là mối lo của nhiều NH khác như DongABank, ACB… Nợ xấu tăng lên gần 4% khiến DongABank giảm lãi tới 60% so với cùng kỳ. Tại ACB, tỷ lệ nợ xấu đã chính thức vượt mốc 3% lên 3,27%.
Theo nhận định của một số chuyên gia, danh sách NH giảm lãi sẽ vẫn còn nhiều trong thời gian tới, vì tín dụng tăng chậm, lãi biên có xu hướng thu hẹp hơn. Nhất là khi các NH phải đẩy mạnh việc trích lập dự phòng cho các khoản nợ đã xấu và những khoản nợ có nguy cơ trở thành nợ xấu theo yêu cầu phân loại nợ và trích lập dự phòng của cơ chế mới. Thông tư 09 sắp áp dụng được dự báo tiếp tục là gánh nặng cho các NH khi tìm kiếm lợi nhuận trong năm 2014. Giới chuyên gia cũng cho rằng, nếu các NH muốn xử lý dứt điểm những “ung nhọt” trong cơ thể mình, việc chấp nhận lợi nhuận sụt giảm, thậm chí chấp nhận thua lỗ để có một sức khỏe tài chính tốt hơn cũng là điều phải tính đến.
Đầu tư giá trị tương lai
Nếu tình hình lợi nhuận của các NH không được khả quan, khả năng chi trả cổ tức cho các cổ đông chắc chắn sẽ khó cao. Trong mùa đại hội cổ đông vừa qua, vấn đề cổ tức được hâm nóng khi nhiều NH chia cổ tức thấp, thậm chí một số NH tuyên bố không chia cổ tức trong vài năm tới.
Thừa nhận việc chia cổ tức thấp là điều không mong muốn, nhưng theo một lãnh đạo NHTMCP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, các cổ đông nên thay đổi quan điểm về vấn đề này. Khi kinh tế khó khăn, NH là huyết mạch của nền kinh tế cũng sẽ không thể hoạt động tốt được. Mặt khác, vị lãnh đạo NHTMCP trên lưu ý, các cổ đông nên quan tâm nhiều hơn đến giá trị cổ phiếu. Đây mới là yếu tố quan trọng.
Ví dụ sau 6 tháng, giá cổ phiếu tăng từ 10 nghìn đồng lên 20 nghìn đồng/cổ phiếu, tăng 100%, lợi tức từ cổ phiếu của cổ đông tăng tương ứng. Còn nếu chỉ trông chờ cổ tức thì rất khó có mức sinh lời cao như vậy. Một số chuyên gia dự báo, cổ phiếu NH sẽ hấp dẫn trong trung và dài hạn, vì các NH đã và đang có những bước tái cấu trúc mạnh mẽ, quyết liệt xử lý các điểm nóng như nợ xấu, sở hữu chéo và cắt giảm các hoạt động rủi ro cao không có lợi cho nền kinh tế như vàng, ngoại hối...
Phân tích thêm giữa lợi nhuận và chia cổ tức, TS. Lê Thành Trung cho rằng, không phải lúc nào mối quan hệ này cũng đồng nhất. Có NH lợi nhuận cao, nhưng do chiến lược phát triển họ muốn dành phần lợi nhuận đó để tái đầu tư, tạo tiềm lực cạnh tranh tốt hơn nên sẽ không chia nhiều cổ tức. Mặt khác, cổ tức hay lợi nhuận cao, thấp còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Ví dụ như đối với DN bán lẻ, khi thị trường đi xuống họ phải chi phí nhiều cho quảng cáo để vực dậy thị trường, giữ thương hiệu. Theo đó, DN mới tiếp tục bán được hàng. Nếu cắt bớt chi phí quảng cáo, tiếp thị thì thương hiệu của DN này rất dễ bị lãng quên. Điều đó đồng nghĩa thị phần thu hẹp, dẫn đến họ phải rời bỏ thị trường bán lẻ.
Đối với các NH cũng vậy, cả nền kinh tế gặp khó khăn, mỗi NH có một chiến lược vượt khó cho mình. Có những NH sử dụng chiến lược tiết giảm tối đa chi phí để có được lợi nhuận. Nhưng lại có NH tranh thủ cơ hội mở rộng tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai như phát triển mạng lưới hoạt động, đầu tư công nghệ tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, gia tăng giá trị đem lợi nhuận tốt hơn trong tương lai... Đây là xu thế mà rất nhiều NH Việt Nam đang hướng tới.
Theo Nguyễn Vũ
Thời báo ngân hàng
Theo Trí Thức Trẻ
Tín dụng toàn hệ thống đối với nền kinh tế tính đến ngày 22/4 tăng 0,62% so với cuối năm 2013, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là điều đáng lo ngại, phản ánh nhu cầu vay vốn nội địa rất yếu.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, tăng trưởng tín dụng thấp ở Việt Nam không phải là từ cầu (bên đi vay) mà là từ cung, bởi các ngân hàng dè dặt không muốn cho vay mà nguyên nhân sâu xa là do nợ xấu cao.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Nam Kim, con số nợ xấu mới được công bố 9,71% của hệ thống ngân hàng là rất cao. Tuy nhiên, đây chỉ là con số bình quân của toàn hệ thống, nếu tính từng ngân hàng thì sẽ có ngân hàng có nợ xấu cao hơn con số bình quân. Những ngân hàng này mới thực sự đáng lo ngại.
Các ý kiến cho biết, theo thông lệ quốc tế, ngân hàng phải có ít nhất vốn điều lệ bằng 8% tổng dư nợ, tức là khi cho vay 100 đồng, ngân hàng phải có 8 đồng vốn để bảo đảm rủi ro tín dụng. Với tỷ lệ 9,71% nợ xấu, như vậy có thể hiểu, toàn bộ vốn điều lệ là dùng để "cúng" nợ xấu, không còn một đồng xu nào dành cho việc ngăn ngừa những rủi ro khác.
Không những thế, cách xử lý nợ xấu hiện nay quá chậm. Công ty Quản lý nợ và tài sản tồn đọng (VAMC) lại không thể xử lý nợ xấu ngay được và về bản chất vẫn chỉ là hạch toán, không phải xử lý bằng nguồn tài chính thực để có tác động vào nền kinh tế.Theo ông Kim, ở mọi quốc gia, người ta đều dùng tiền thật để vực dậy ngân hàng yếu kém, chỉ riêng ở Việt Nam là dùng giải pháp "kế toán" để xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, theo ông Kim, nên nghiên cứu thêm phương án tìm kiếm vốn trên thị trường quốc tế để tài trợ hệ thống ngân hàng.
"Tất nhiên như vậy nợ công sẽ tăng, nhưng ta cũng tin rằng hệ thống ngân hàng sẽ sớm phục hồi, sẽ trang trải khoản nợ này. Khi trái phiếu đáo hạn hoặc được hoán đổi thành cổ phiếu và bán lại trên thị trường chứng khoán. Một khi hệ thống ngân hàng bình phục, DN sẽ có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn, kinh tế sẽ trở lại đà phát triển cũ", ông Kim nói.
Với mức nợ xấu hiện tại, không một ngân hàng nào dám dứng lên cho DN đang gặp khó khăn vay tiền. Ngay cả với những DN có kinh doanh tương đối tích cực, họ cũng rất dè dặt. DN không thể tiếp cận được nguồn vốn, tiếp tục phải giải thể, thì tình hình sẽ khó khăn hơn và nợ tốt hiện tại sẽ trở thành nợ xấu giống như một vòng xoáy khó thoát.
Ông Kim cho biết, đây không phải là một kịch bản tưởng tượng mà là tình hình thật sự của hệ thống ngân hàng. Họ đang thừa tiền huy động, không thể cho DN vay, nên đổ vào trái phiếu và đang nỗ lực cho vay tiêu dùng. Trong khi đó, giới tài chính đều thừa nhận lĩnh vực vay tiêu dùng, nhất là với những quốc gia có thu nhập thấp thì rủi ro rất cao.
Một số ý kiến cho rằng, hiện nay nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã qua thời kỳ "cục máu đông" mà trở thành "cục u ác tính", phát triển hỗn độn và có tính xâm lấn. Nếu chúng ta vẫn chậm chạp trong xử lý nguy cơ lan tràn dễ xảy ra và sẽ rất khó giải quyết.
Nếu tình trạng nợ xấu quá mức còn tồn tại thì nguy cơ một vài ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng phá sản rồi kéo theo những ngân hàng khác và đe dọa cả hệ thống ngân hàng. Không những thế, số DN gặp khó khăn đóng cửa vẫn nhiều, kinh tế quốc gia sẽ tiếp tục trì trệ.
Theo Trần Thủy
VEF
Số liệu thống kê của Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước – NHNN) cho thấy, tính đến 22/4/2014 tín dụng đã tăng 0,62% so với cuối năm 2013. Dòng tiền sau một thời gian “đóng băng” thì nay đã nhúc nhích chuyển động, thay vì “đứng im” như 2 tháng đầu năm.
Trong khi đó, số liệu tăng trưởng tại một số tổ chức tín dụng lại ghi nhận sự tăng đột biến. Có những ngân hàng ngay trong quý I/2014 tín dụng đã tăng tới trên 10 % như NHMTCP Tiên Phong (TPB), hay như tại NHTMCP Quốc tế (VIB) tăng ở mức 7,1%. Thuộc top tăng trưởng thấp hơn có thể điểm đến những cái tên như NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), mức tăng trưởng dành cho khách hàng vay đạt 2,25%, tương đương 71.858 tỷ đồng…
Các ngân hàng hiện đang chấp nhận "ăn mỏng" lợi nhuận để đẩy vốn ra nhanh hơn
Chia sẻ với Infonet, ông Lê Quang Trung – Phó tổng giám đốc VIB cho biết, sở dĩ tín dụng của VIB tăng trưởng tốt là do các giải pháp cơ cấu lại khách hàng, cơ cấu lại sản phẩm… của ngân hàng thực hiện trong thời gian dài vừa qua, tới giờ đã “ngấm”.
Tuy vậy, ông Lê Quang Trung cho rằng, trong bối cảnh hiện nay tín dụng sẽ khó tăng ồ ạt bởi nợ xấu vẫn là mối nghi ngại của các nhà băng. Đồng thời, sau một thời gian “vấp” phải nợ xấu các ngân hàng đã thắt chặt khẩu vị rủi ro, “mở” hầu bao nhưng cũng phải lựa chọn đối tượng để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
Theo sếp của VIB, với tình hình kinh doanh hiện nay mức chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra của các nhà băng đã rút về còn dưới 1%, chứ không phải “ăn dày” như nhiều người vẫn nghĩ. “Thậm chí, chúng tôi chấp nhận hy sinh lợi nhuận, cho vay dưới giá vốn nếu “gặp” được DN tốt” – Phó tổng của VIB thẳng thắn.
Dẫn chứng cho con số mình đưa ra, ông Trung tính toán, với mức lãi huy động đầu vào thị trường khoảng 6%/năm hiện nay, cộng với khoản dự trữ bắt buộc, các loại chi phí (chi phí hành chính, trả lương nhân viên…) thì chênh lệch lãi suất giữa đầu vào – đầu ra của ngân hàng sẽ vào khoảng 7,8%/năm. So với mức lãi cho vay ra của nhà băng này hiện vào khoảng 8,5%/năm thì ngân hàng chỉ “lời” 0,7%.
Ngay cả với các ngân hàng quốc doanh giá vốn huy động rẻ hơn, nhưng lãi vay đầu ra thấp hơn khối thương mại cổ phần thì lãi biên tín dụng cũng rất thấp, dưới 1%.
“70-80% thu nhập của nhà băng đến từ tín dụng. Nếu huy động một đồng vốn mà để tồn trong kho lâu là lỗ, thế nên bằng mọi cách, thậm chí chấp nhận lãi ít cũng phải đẩy vốn ra. Vốn ra được cũng giúp luân chuyển sản xuất trong nền kinh tế hài hòa hơn” – ông bày tỏ.
Theo lý giải của NHNN, trong bối cảnh lạm phát so với cùng kỳ tăng ở mức thấp (4,45%), tín dụng đã có tăng trưởng thực, dù 4 tháng đầu năm mới chỉ đạt chưa đầy 1%, cũng có tác dụng mở rộng đầu tư để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Ở hoạt động huy động vốn, dù trong thời gian qua, lãi suất chỉ duy trì mức thấp là 6%/năm cho các kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng và từ 6,5 - 7,5% cho các kỳ hạn dài, nhưng dòng tiền vẫn tiếp tục đổ vào ngân hàng bởi gửi tiết kiệm vẫn được đánh giá là đầu tư an toàn và hiệu quả.
Theo thống kê của NHNN hiện mặt bằng lãi suất cho vay chỉ ở mức 9-10,5%/năm đối với ngắn hạn; 11-12,5%/năm đối với trung và dài hạn. Trong đó, một số DN có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả lãi suất cho vay chỉ 6-7%/năm.
Đó là mặt bằng lãi suất chung của cả hệ thống, còn tại một số nhà băng mức lãi vay dành cho DN đã ”tụt” hẳn xuống, chỉ dao động từ 6-8,5%/năm như tại VIB.
Đa số các lãnh đạo nhà băng đều cho rằng, dòng vốn đang ”đổ” vào sản xuất nhiều hơn.
Đã qua thời các nhà băng “ăn dày” chênh lệch giữa lãi suất huy động-cho vay lên tới 5-6% khiến DN bức xúc tố với NHNN cách đây 1 năm.
Ngân hàng đổ xô ra “chợ”
Trước đây, các ngân hàng (NH) thường tập trung chủ yếu vào bán buôn (ngân hàng đầu tư) và đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp thì thời gian gần đây việc đẩy mạnh kênh bán lẻ thông qua việc cho vay tiêu dùng và phát triển dịch vụ đang là hoạt động được quan tâm hàng đầu, mang lại những đóng góp rất lớn vào lợi nhuận của nhiều ngân hàng.
Theo thống kê, hiện nay, thị trường bán lẻ đang chứng kiến sự cạnh tranh gay gắt của hơn 100 tổ chức tín dụng, đặc biệt là của 48 ngân hàng thương mại và 53 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, như vậy có thể thấy, ở thời điểm hiện tại, bán lẻ đang là một hướng đi nhận được rất nhiều sự quan tâm từ phía các NH. Không khó để có thể nhận thấy những lợi ích tích cực của kênh bán lẻ mang lạị. Cụ thể, dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL) đã trực tiếp làm biến tổi từ nền kinh tế tiền mặt sang nền kinh tế không dùng tiền mặt, góp phần giảm chi phí xã hội của việc thanh toán và lưu thông tiền mặt.
Đối với các NH, kênh bán lẻ góp phần làm đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Đối với khách hàng, dịch vụ NHBL đã mang đến cho khách hàng sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả trong quá trình thanh toán, sử dụng nguồn thu nhập của mình.
Rất nhiều rủi ro
Theo TS. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, cho vay tiêu dùng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cho cả bên cho vay và người đi vay vốn”.
Cụ thể, mặc dù các NH đang ra sức đưa ra những ưu đãi để thu hút khách hàng, mở rộng nguồn khách hàng, nhưng thực tế cho thấy, việc đẩy mạnh cho vay tiêu dùng vẫn là một hoạt động rất khó, bởi nhu cầu của khách hàng chưa cao. Mặc dù nhiều NH đã giảm lãi suất rất lớn, tuy nhiên, nhiều khách hàng vẫn chưa thấy “mặn mà”, vẫn mang tâm lý chờ đợi lãi suất và giá nhà giảm thêm.
Không chỉ có vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và bán lẻ nói chung cũng tiềm ẩn rất nhiều gặp rủi ro do khách hàng vay trải rộng và nợ xấu có nguy cơ tăng cao. Việc đẩy mạnh các dịch vụ bán lẻ như cho vay qua thẻ, sản phẩm phái sinh dễ dẫn đến tình trạng mất vốn, phái sinh chịu rủi ro tỷ giá…Còn đối với các NH, việc hạ lãi suất ở hầu hết các gói ưu đãi khiến cho lãi suất cho vay ở mức thấp, không thể bằng mức cho vay doanh nghiệp.
Bên cạnh đó,việc các NH hối hả chạy đua bán lẻ cũng khiến cho thị trường nhân sự của nhóm ngành tài chính ngân hàng có sự biến động và xáo trộn rất lớn. Đi kèm với việc hàng loạt các nhân sự bị sa thải, thay thế là việc rất nhiều ngân hàng liên tiếp tuyển dụng để có sự thay thế, bù đắp. Theo khảo sát của Công ty Towers Watson, tỷ lệ nghỉ việc của ngành ngân hàng năm 2013 khoảng 15%.
Bà Nguyễn Thị An Bình, Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) khẳng định, đúng là mảng ngân hàng bán lẻ, cho vay tiêu dùng đem lại lợi nhuận cao, song từ trước đến nay, MB không chủ trương “đua” cho vay tiêu dùng. Bởi dù lợi nhuận cao, song phát triển ngân hàng bán lẻ, cho vay tiêu dùng đồng nghĩa với việc cực kỳ tốn nhân lực, chi phí lớn và nguy cơ nợ xấu cao.
Theo Minh Hiền
Seatimes
Để giữ chân khách hàng tốt, có thể ngân hàng nhỏ phải lựa chọn hy sinh lợi nhuận, thậm chí lỗ cục bộ, bởi mất khách hàng là mất tất cả - Ảnh minh họa.